9. Luyện Lửa Tam Muội - Kundalini (gửi bởi Echo )
Câu chuyện thứ nhất:
Rechung là một trong số đệ tử của Milarepa, xuất thân là một học giả xuất sắc. Rechung tu trong hang động cùng với Milarepa, vì coi trọng hình thức nên yêu cầu Milarepa tìm một ngôi chùa lớn đẹp cho xứng với danh vị của ông nhưng Milareapa không đồng ý và cho rằng hang động rêu phong của ông không khác gì với cung điện ngọc lưu ly. Sau đó thì Rechung rời khỏi hang động để đi giảng thuyết khắp nơi, và được nổi danh với tài hùng biện, được một tiểu vương xây cho một ngôi chùa nguy nga và gả luôn công chúa cho ông.
Bà Rechung kiêu sa, lại ỷ bề gia thế nên xem thường chồng. Bà ta đốt sách, đuổi bạn bè của ông, cấm không cho ông ra khỏi nhà để đi giảng thuyết mà phải làm việc kiếm tiền. Một ngày kia ông bị bà dùng gươm chém bị thương và bỏ chạy. Nhìn xuống vết thương ông thấy máu ra thấm ướt hết áo, một màu trắng đục do ông luyện lửa Tam muội và nó khiến ông nhớ về đạo. Ông bèn tìm đến hang động của Milarepa và ở lại đó tu hành. Về sau, ông trở thành đệ tử lớn của Milarepa và là tác giả cuốn "Cuộc đời của Milarepa.”
Câu chuyện thứ hai:
Trong tông phái này thường có những cuộc thi về nhiệt công. Ban đêm trời lạnh căm, thí sinh ngồi tại bờ sông không mặc quần áo chờ người ta nhúng tấm mền nỉ xuống sông và đắp lên người của thí sinh, không bao lâu thì cái mền bị đông đá. Thí sinh phải vận công chuyển nhiệt, dùng lửa Tam muội làm khô cái mền. Khi chăn khô thì người ta lại đắp cái chăn ướt khác lên. Cứ vậy đến trời sáng. Thí sinh phải hong khô ít nhất là 3 cái chăn mới có được danh hiệu ‘Ripa’ kèm theo tên của mình. Tôi được biết có người đã làm khô tới 40 cái chăn!
Những tu sĩ ở nơi thâm sơn cùng cốc luyện luồng hỏa hầu thường không mặc quần áo. Nhưng khi Tây Tạng bị quân đội Anh xâm chiếm thì nhiều đạo sĩ lõa thể bị bắt nhốt vì tội công xúc tu sĩ.
Tại tu viện Samye có một trưởng lão luyện lửa Tam muội tới mức cao siêu. Tôi đến xin người chỉ cho tôi, tôi năn nỉ mãi, và còn tỏ ra là mình không tin lắm vào năng lực gia trì của bài chú hay của việc điểm đạo truyền pháp. Cuối cùng thì người cũng khẩu truyền cho tôi một bài chú ngắn và kêu tôi lên núi, tắm rửa trong dòng suối, sau đó thì đọc bài chú. Thời tiết tuy là vào mùa hè, nhưng vì ở trên núi cao tới 6,000 thước nên cũng khá lạnh. Tôi nghe lời lên núi tắm rửa trong dòng nước lạnh và sau đó là tĩnh tọa chú tâm đọc bài chú. Một hồi sau thân thể tôi từ từ nóng lên và hơi ấm lan tỏa ra khắp người tôi đưa đến cảm giác rất dễ chịu; tôi đã không bị cảm vì tắm nước lạnh và ngồi ở ngoài trời suốt đêm. Đây là kinh nghiệm đầu tiên của tôi về lửa Tam muội mặc dù tôi không có được điểm đạo và cũng không biết một tí gì về khí công.
8 năm trôi qua. Một ngày kia tôi đang đi trên triền núi thì bị vấp ngã xuống sông, nước sông lạnh giá làm hai chân tôi tê cứng lại, tôi chỉ có thể lết lên bờ. Bộ quần áo tôi mặc trên người cũng bị đông đá. Tôi cố lết được tới vệ đường thì không nhúc nhích được nữa và tôi nghĩ nếu như tình trạng này kéo dài chừng ½ tiếng nữa chắc tôi sẽ bị chết cóng. Tôi ước phải chi mình biết nhiệt công thì tốt quá.
Tôi liền cầu nguyện các Chư tổ xin hãy cứu tôi, và tôi đã nhớ lại bài chú mà đã lâu tôi không có đọc. Thế là tôi ráng hít thở và đọc bài chú, và cảm thấy thân thể tôi nóng dần lên, có một luồng hơi ấm lan đi khắp người tôi và không bao lâu thì bộ đồ mặc trên người đã được khô ráo, và tôi đã có thể đi trở về làng. Đây là kinh nghiệm lần thứ hai của tôi về lửa Tam muội, và tôi ngộ ra các phương thức luyện tập khí công phức tạp kia thì ra chỉ là những kỹ thuật căn bản bên ngoài, bên trong chính là sức gia trì của các Chư Tổ đã giúp tôi khi tôi đọc bài chú, và bài chú mới chính là động năng quan trọng nhất của phép luyện lửa Tam Muội.
Lời bình
Vào mùa đông, trên đỉnh núi Tuyết Sơn, thường có các đạo sĩ Tây Tạng để mình trần hay chỉ khoác chiếc áo mỏng ngồi tham thiền mà không bị chết cóng do luyện được lửa Tam Muội.
Có nhiều kỹ thuật để luyện lửa Tam muội. Người luyện ngồi thẳng lưng, kiết già hay bán già, nhắm mắt, từ từ hít thở và chú tâm vào hơi thở và đọc câu thần chú. Mục đích là đưa hơi thở vào 7 cái “luân xa” hay các mạch đạo nằm ở xương sống bắt đầu từ cuối xương sống và chấm dứt ở đỉnh đầu. Khi hít hơi vô trong trí quán tưởng rời xa những thói tham sân si, khi thở ra thì quán nạp vào từ bi hỷ xả, thanh tịnh, vô ngã, vị tha. Nếu như hít thở đúng cách thì sẽ kích động các huyệt đạo, đưa đến cảm giác thoải mái dễ chịu có khi rất hưng phấn như là được "mặc áo tiên", hay "sống trong tiên cảnh". Khi luyện tập lên trình độ cao, đưa được luồng hỏa hầu lên đỉnh đầu, gọi là “nhập Tam muội” thì sẽ đạt được quyền năng phi thường và đắc đạo.
Môn luyện này cần có sự hướng dẫn của đạo sư kinh nghiệm vì nó rất nguy hiểm, sơ sảy sẽ hóa điên hay chết. Sau thời gian tập hít thở người đệ tử sẽ được vị thầy làm lễ điểm đạo truyền pháp. Nhưng các vị thầy này thường hướng dẫn đệ tử tu luyện một cách mập mờ khó hiểu khiến cho đệ tử lắm lúc không biết phải làm sao. Việc thật hư của môn bí truyền này thật khó mà kiểm chứng vì được thêm thắt nhiều điều huyễn hoặc, vô lý.
Việc các sư Tây Tạng vẫn còn ở trần lên núi tuyết biểu diễn thần thông chống lạnh cũng giống như mấy vị trong tông phái thần quyền (Việt Nam, Thái Lan, Lào, Campuchia…) thường biểu diễn phép dao chém vào người không đứt. Những biểu diễn huyền thuật như vậy đều có mục đích cho thấy huyền năng của Thánh Thần, nhưng xét về mặt ích lợi trong việc luyện tập thì phép đao chém không đứt có ích lợi hơn phép chống lạnh, vừa khó khăn vừa nguy hiểm và cũng không cần thiết cho lắm vì đã có áo ấm, có thể dễ dàng chống rét mà không cần phải bỏ cả cuộc đời luyện lửa Tam muội.
Bà D.N là người có trí tuệ nên sau hai lần kinh nghiệm về “lửa Tam muội” bà đã ý thức là mình không hề luyện qua kỹ thuật hít thở nào để khai mở luân xa, đánh thức luồng hỏa hầu gì hết mà vẫn có được lửa Tam muội, bà chỉ có được câu thần chú và lòng tin tưởng cầu nguyện nên được chư Tôn gia trì sức nóng và cứu bà thoát nạn. Tuy nhiên, bà David Neel chỉ ngộ ra được có một điều là lửa Tam muội không cần phải luyện khí công mới có, nhưng bà vẫn lầm tưởng là do bài thần chú.
Nếu hiểu được lý đạo cao hơn thì việc bà được gia trì cũng không do thần chú, và cũng không có bài thần chú nào quan trọng, bằng chứng là người thọ nhận điểm đạo chỉ cần cầu nguyện với bề trên (không niệm chú) là nhận được ngay gia trì lực của Thánh Thần và cũng được Thánh Thần gia hộ, và cũng rất nhiều người không hề biết một câu chú nào, khi gặp nạn họ chỉ cầu cứu đến Quan Âm Bồ tát, các Thánh bảo hộ trong đạo của họ và được cứu thoát một cách mầu nhiệm.
Các cách tu như tĩnh tâm tham thiền, luyện hơi thở, quán tưởng, đọc thần chú đều là hình thức, và chỉ có làm theo hình thức thì không thể có sự mầu nhiệm. Điều kiện chủ yếu của mọi huyền thuật, thần thông, phép lạ phải từ Thánh Thần, và có Thánh Thần mới là có được nội dung của đạo. Cứu cánh của người tu không phải là có được bài chú này, hay bài chú khác mà chỉ cần có được sự chứng minh của Thánh Thần.
Người tu Mật giáo nếu được truyền cho thần chú thì cứ niệm thần chú, xem đó là phần thực hành công phu trong Tam công, nếu không thích trì thần chú thì có thể cầu nguyện với vị thánh, thần nào mình biết rõ hay được nhân gian tin tưởng, như câu chuyện tướng Lưỡng cầu với thần Lê Văn Duyệt, sư Chimđađa cầu thần Nguyễn Trung Trực v.v... (trong loạt bài của ThầyGià).
Lời khuyên: Nếu bước vào lãnh vực siêu hình mà không biết đến nội dung - sự hộ trì của Thánh Thần - chỉ chấp vào hình thức tu luyện kiểu này, kiểu khác và khổ luyện những cái nguy hiểm sẽ bị tẩu hỏa nhập ma hay điên khùng mà khoa học gọi là hội chứng Kundalini.
Người tu muốn luyện năng lực thần thông phải xem nó có ích cho cơ thể và an toàn hay không, không nên mạo hiểm luyện những cái khó khăn nguy hiểm cốt để khoe tài mà hoài công vô ích, vì những luyện tập về thể xác chỉ có thể đưa đến thay đổi về thể xác chứ không liên quan gì đến tâm linh, nên không thể nói ai đưa được luồng hỏa hầu lên đỉnh đầu là sẽ đắc đạo.
Muốn đắc đạo phải thực hiện ba giai đoạn sau đây:
- Tự giác – đi học và hiểu các giáo lý đạo cho thông suốt.
- Giác tha – đi dạy đạo.
- Giác hạnh viên mãn – dạy đạo lâu năm, kinh nghiệm nhiều.
Giai đoạn thứ ba xong rồi thì sẽ đắc đạo thành Phật - Trở thành một bậc thầy dạy đạo, hưởng phước lộc của Trời.